Bến sông Kon Ngo K’tu ở xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum chẳng biết được hình thành từ bao giờ. Theo lời kể lại của những người lớn tuổi trong làng, bến sông có từ thời rất xa xưa, từ khi làng mới bắt đầu lập lên. Điều đặc biệt là dù trải bao thăng trầm của cuộc sống và sự biến đổi của thời gian, bến sông vẫn không thay đổi gì nhiều; vẫn là nơi để đàn ông neo đậu thuyền mỗi khi đi rẫy về, là nơi sinh hoạt giặt giũ hàng ngày của chị em phụ nữ trong thôn…
Với đồng bào H’Rê ở xã Pờ Ê (huyện Kon Plông), nhà sàn không chỉ là nơi để ở, không gian sinh hoạt của mỗi gia đình mà đây còn là sản phẩm văn hóa mang nét đặc trưng, là niềm tự hào của người H’Rê. Vì vậy, dù trải qua những thăng trầm, chịu nhiều tác động từ đời sống hiện đại, nhưng người dân nơi đây vẫn gìn giữ được nếp nhà sàn truyền thống...
Mưa ở phố núi mang nét riêng, như cô gái hay dỗi hờn, đến đi bất chợt, đầy quyến rũ đối với bất cứ ai lần đầu tiên “nếm” mùa mưa Tây Nguyên. Thế cho nên, không ít người khi tạm xa lại vấn vương, thương nhớ về một chiều mưa phố núi...
Vỏ bầu khô là vật dụng không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc Ba Na ở thành phố Kon Tum. Vỏ bầu to người dân dùng để đựng nước uống, đựng cháo mang đi làm rẫy hay cất giữ hạt giống; vỏ bầu nhỏ được cắt ra làm muỗng múc canh, múc rượu hay đơn giản là kết thành chiếc chuông gió trang trí trước cửa nhà…
Ghé thăm làng Chốt (thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy), được gặp gỡ, lắng nghe bà con tâm sự, chúng tôi nhận thấy rằng, nơi đây những giá trị văn hóa truyền thống luôn được trân trọng và gìn giữ…
Với anh A Phếch ở làng Trấp, xã Ya Tăng, huyện Sa Thầy, lưu giữ cồng chiêng là niềm đam mê bất tận. Bởi vậy, gần 10 năm nay, chỉ cần nghe thông tin ở đâu bán cồng chiêng, chẳng ngại xa xôi, anh lại tìm đến tận nơi mua để lưu giữ. Đến nay, anh đã mua và giữ được 4 bộ cồng chiêng quý.
Lễ hội cầu an là lễ hội truyền thống có từ ngàn đời xưa của người Ba Na (nhánh Rơ Ngao). Đây là một trong những lễ hội đặc sắc liên quan đến cộng đồng làng, nhằm cầu mong cho dân làng ấm no, hạnh phúc...
Chiều cuối tuần. Nắng rưng rức vàng trên phố. Tôi lang thang xuống làng Kon H’ra Chót (phường Thống Nhất, thành phố Kon Tum), bất ngờ gặp một nhóm phụ nữ mặc váy áo thổ cẩm cười nói rộn ràng. Hỏi rằng “các chị đi đâu thế”? Đáp rằng “Đi tập bài chiêng mới”. À, thì ra là đội chiêng nữ nức tiếng của làng đây mà...
Cũng như bao cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số khác trên địa bàn tỉnh, người Ba Na ở làng Kon Jơ Ri (xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum) có truyền thống làm rượu ghè. Họ không rõ biết làm ra rượu ghè từ khi nào, chỉ biết rằng từ lâu lắm rồi, tổ tiên, ông bà họ đã biết làm rượu ghè để tế thần linh và cùng nhau thưởng thức. Và, từ lâu nghề nấu rượu ghè trở thành truyền thống nhằm phục vụ đời sống tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng của người Ba Na nơi đây.
Ai đó đã từng nói, chỉ có thời gian mới giúp cho con người ta cảm nhận rõ hơn mọi thứ xung quanh mình. Với tôi, 12 năm lên “phố núi” Kon Tum công tác, tuy chưa phải là dài nhưng cũng đủ để cảm nhận rõ tình yêu của mình dành cho mảnh đất nơi đây. Tôi yêu đất và người Kon Tum, yêu từng góc phố thân thương, yêu từng con đường “nối phố với rừng” trải đầy hoa nắng…
Bắt đầu tuổi cập kê, những cô gái Rơ Ngao (Ba Na) ở xã Pô Kô, huyện Đăk Tô đã biết vào rừng kiếm củi mang về chất đầu nhà, sau bếp đợi đến khi tìm được ý trung nhân, tổ chức đám cưới sẽ mang tặng mẹ chồng. Không chỉ là sính lễ về nhà chồng, củi hứa hôn còn là thước đo sự giỏi giang, khéo léo và tình yêu dành cho chồng của người con gái.
Trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của đồng bào các DTTS trên địa bàn huyện Kon Plông, cùng với cồng chiêng, múa xoang và các diễn xướng khác, người dân tộc Xơ Đăng và Hrê sinh sống trên địa bàn huyện còn sở hữu nhiều nhạc cụ dân tộc độc đáo được làm từ những nguyên vật liệu sẵn có của núi rừng. Trong đó, các loại đàn như: Ting ning, brâu, prâng, sáo tà vẩu… đã được người dân chế tác và sử dụng trong đời sống thường nhật phần nào thể hiện được đời sống tinh thần phong phú và sự tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân.
Tôi trở lại bến Đợi của làng Chờ (xã Ya Ly, huyện Sa Thầy) vào một ngày đầy nắng tháng 3. Bến Đợi là một trong những điểm du lịch của huyện Sa Thầy. Nơi đây, dù chỉ cách trung tâm huyện lỵ Sa Thầy không xa, nhưng do vị trí của làng Chờ nằm riêng về một nhánh đường, nên không gian khá yên tĩnh...
“Vậy là dân làng đã có nhà rông mới. Niềm vui không thể nào diễn tả được. Gần 2 năm nay, kể từ khi nhà rông cũ bị cháy, dân làng ngày đêm thấp thỏm lo âu, sợ mất đi cái hồn cốt của làng khi đêm đêm con trai không được lên nhà rông để ngủ, ngày Tết làng (cuối tháng 2 hàng năm) bà con không có chỗ để đặt lễ vật cúng thần linh, rồi mỗi buổi sinh hoạt hội họp cộng đồng làng bà con không được ngồi dưới mái nhà rông cao vút...” - già làng A Lãi vui mừng trò chuyện với chúng tôi trước khi Lễ khánh thành nhà rông mới của làng bắt đầu.
Tiếng Ba Na, Kon Kơ Tu có nghĩa là làng cổ. Người dân trong làng còn giữ được nhiều nghề truyền thống, trong đó có nghề dệt thổ cẩm. Cùng với những nét văn hoá độc đáo khác, sản phẩm thổ cẩm và nghề dệt thổ cẩm là một trong những yếu tố góp phần tạo nên “hồn cốt” của người Ba Na.
Đến với thôn Kon Jong, xã Ngọc Réo (huyện Đăk Hà), một trong những thứ khiến tôi không thể quên chính là hương rượu nếp cẩm men lá của bà con dân tộc Xơ Đăng nơi đây.